Nhờ sự phát triển của chẩn đoán hình ảnh, công nghệ sinh học... việc chẩn đoán bệnh ung thư gan nguyên phát sớm hơn, một số thuốc điều trị đích đã và đang được ứng dụng phần nào cải thiện thời gian sống cho người bệnh.
Ung thư gan nguyên phát hay còn gọi là ung thư biểu mô tế bào gan là loại ung thư phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Nguyên nhân của bệnh có liên quan rõ rệt với viêm gan virut B, viêm gan C, sán lá gan, vai trò của aflatoxin B1, rượu. Phòng bệnh ung thư gan hoàn toàn có thể ngăn ngừa được bằng cách tiêm phòng viêm gan, đặc biệt phụ nữ mang thai, trẻ em và thay đổi lối sống.
Điều trị cho bệnh nhân ung thư gan tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Ảnh: Q.N
Những biểu hiện thường gặp của ung thư gan
Ung thư (UT) gan sớm thường không có triệu chứng. Khi UT phát triển lớn hơn ta có thể nhận thấy một hoặc nhiều các triệu chứng như: cảm giác nặng, đau hoặc tự sờ thấy khối vùng hạ sườn phải. Mệt mỏi, mất cảm giác ngon miệng, gầy sút cân, buồn nôn và nôn. Vàng da, vàng mắt, phân nhạt màu, nước tiểu đậm màu. Khi có di căn xa có thể thấy kèm theo các triệu chứng của các cơ quan mà ung thư lan tới. UT gan thường lan đến phổi, có lẽ bằng đường máu. Một số ít trường hợp UT lan đến xương hoặc não.
Làm thế nào để biết bệnh ung thư gan?
Xét nghiệm máu
Không có xét nghiệm tầm soát đáng tin cậy và chính xác cho bệnh UT gan. Xét nghiệm sinh hóa sử dụng rộng rãi nhất là αFP (alpha-fetoprotein), αFP tăng gặp ở cả bệnh nhân viêm gan cấp và mạn tính (tăng mức độ nhẹ hoặc vừa). αFP tăng cao (trên 500ng/ml) rất gợi ý cho một UT gan, độ nhạy của αFP cho UT gan là khoảng 60%, do đó một αFP bình thường không loại trừ UT gan.
Chẩn đoán hình ảnh
Nghiên cứu hình ảnh siêu âm, CT scan, MRI đóng vai trò rất quan trọng trong việc chẩn đoán UT gan, giúp cung cấp thông tin về kích thước khối u, số lượng các khối u, sự xâm lấn và lan rộng của UT.
Sinh thiết gan hoặc hút tế bào
Thực hiện sinh thiết kim dưới hướng dẫn của siêu âm hoặc CT scan, nguy cơ hay gặp nhất của phương pháp này là chảy máu do UT gan là khối u rất giàu mạch máu. Trong một số trường hợp UT gan, mô UT rất giống mô gan lành dưới kính hiển vi. Đôi khi có thể nhầm lẫn UT gan và ung thư tuyến trong gan. Các tiến bộ trong hóa mô miễn dịch có thể giúp phân biệt các trường hợp này.
Hút tế bào an toàn hơn sinh thiết do ít nguy cơ chảy máu, tuy nhiên, mẫu bệnh phẩm thu được bằng hút là khó khăn hơn.
Nên chọn phương pháp nào để chữa trị?
Lựa chọn phương pháp điều trị được quyết định bởi các giai đoạn của UT gan và tình trạng chung của bệnh nhân.
Phẫu thuật cắt bỏ gan
Mục đích của phẫu thuật cắt gan là để loại bỏ hoàn toàn khối u và các mô xung quanh. Lựa chọn này được giới hạn ở những bệnh nhân có một hoặc hai u nhỏ (kích thước dưới 3cm) và chức năng gan còn tốt, không có xơ gan liên quan. Những bệnh nhân có khối u được phẫu thuật thành công, tỷ lệ sống sót sau 5 năm lên đến 60%.
Ghép gan
Ghép gan là lựa chọn tốt nhất cho những bệnh nhân có khối u nhỏ hơn 5cm và có dấu hiệu của suy gan. Để phòng ngừa, làm sinh thiết hoặc hút tế bào nên tránh ở những bệnh nhân cân nhắc ghép gan.
Hóa tắc động mạch gan (trans-arterial chemoembolization or TACE)
Thủ thuật này cũng tương tự như bơm hóa chất động mạch gan, nhưng trong TACE có bổ sung những hạt gel nhỏ làm tắc mạch sau khi bơm hóa chất. Ưu điểm của phương pháp này là tập hóa chất nồng độ cao và không bị mang đi bởi máu. Bằng cách dựa trên chặn lưu lượng máu đến khối u, TACE cũng gây ra một số thiệt hại cho vùng gan xung quanh, bệnh nhân có thể có đau, sốt, nhiễm trùng, tích tụ chất lỏng.
TS. BS. Đỗ Anh Tú (Trưởng khoa Nội 3, Bệnh viện K T.Ư)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét